Hồ Chí Minh
Nhật ký trong tù
Mở đầu tập nhật ký
開卷
Khai quyển
Mở đầu tập nhật ký
老夫原不愛吟詩
因為囚中無所為
聊借吟詩消永日
且吟且待自由時
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Bản dịch của Nam Trân:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết là chi đây;
Ngày dài ngâm đợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
在足榮街被扣留
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
足榮却使余蒙辱
故意遲延我去程
間諜嫌疑空捏造
把人名誉白牺牲
Túc Vinh khước sử dư mông nhục
Cố ý trì diên ngã khứ trình
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo
Bả nhân danh dự bạch hy sinh
Bản dịch của Huệ Chi:
Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho người vô cớ mất thanh danh.
Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy “mông nhục” (mang nhục) đối lại với “túc vinh” (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý.
Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây
入靖西縣獄
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây
獄中舊犯迎新犯
天上晴雲逐雨雲
晴雨浮雲飛去了
獄中留住自由人
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Bản dịch của Nam Trân:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung - Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đường đời hiểm trở
世路難
Thế lộ nan
Đường đời hiểm trở
一
走遍高山與峻岩
那知平路更難堪
高山遇虎終無恙
平路逢人却被監
二
余原代表越南民
擬到中华見要人
無奈風波平地起
送余入獄作嘉賓
三
忠誠我本無心疚
却被嫌疑做漢奸
處世原來非易易
而今處世更難難
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
Bản dịch của Nam Trân:
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Buổi sớm
早
Tảo
Buổi sớm
一
太陽每早從牆上
照着龍門門未開
籠裡現時還黑暗
光明却已面前來
二
早起人人争獵虱
八鐘响了早餐開
勸君且吃一個飽
否極之時必泰來
Thái dương mỗi tảo tòng tường thượng
Chiếu trước lung môn môn vị khai
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.
Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt
Bát chung hưởng liễu tảo xan khai
Khuyến quân thả ngật nhất cá bão
Bĩ cực chi thì tất thái lai.
Bản dịch của Nam Trân - Xuân Thủy:
Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
Sớm dậy, người người đua bắt rận,
Tám giờ chuông điểm, bữa ban mai;
Khuyên anh hãy gắn ăn no bụng,
Bĩ cực rồi ra ắt thái lai.
Buổi trưa
午
Ngọ
Buổi trưa
獄中午睡真舒服
一睡昏昏幾句鐘
夢見乘龍天上去
醒時才覺卧籠中
Ngục trung ngọ thụy chân như phục
Nhất thụy hôn hôn kỷ cú chung
Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ
Tỉnh thời tài giác ngọa lung trung
Bản dịch của Nam Trân:
Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,
Một giấc miên man suốt mấy giờ;
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.
Lời hỏi
問話
Vấn thoại
Lời hỏi
社會的兩極
法官與犯人
官曰你有罪
犯曰我良民
官曰你說假
犯曰我言真
法官性本善
假裝惡狺狺
要入人於罪
卻假意慇懃
這兩極之奸
立著公理神
Xã hội đích lưỡng cực,
Pháp quan dữ phạm nhân;
Quan viết: nhĩ hữu tội,
Phạm viết: ngã lương dân;
Quan viết: nhĩ thuyết giả,
Phạm viết: ngã ngôn chân;
Pháp quan tính bản thiện,
Giả trang ác ngân ngân;
Yếu nhập nhân ư tội,
Khước giả ý ân cần;
Giá lưỡng cực chi gian,
Lập trước công lý thần.
Bản dịch của Huệ Chi - Nguyễn Sĩ Lâm
Hai cực trong xã hội,
Quan toà và phạm nhân;
Quan rằng: anh có tội,
Phạm thưa: tôi lương dân;
Quan rằng: anh nói dối,
Phạm thưa: thực trăm phần;
Quan toà tính vốn thiện,
Vờ làm bộ dữ dằn;
Muốn khép người vào tội,
Lại ra vẻ ân cần;
Ở giữa hai cực đó,
Công lý đứng làm thần.
Quá trưa
午後
Ngọ hậu
Quá trưa
二點開籠換空氣
人人仰看自由天
自由天上神仙客
知否籠中也有仙
Nhĩ điểm khai lung hoán không khí
Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên
Tự do thiên thượng thần tiên khách
Tri phủ lung trung dã hữu tiên.
Bản dịch của Nam Trân:
Hai giờ ngục mở thông hơi,
Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do;
Tự do tiên khách trên trời,
Biết chăng trong ngục có người khách tiên?
Bản dịch của Vũ Huy Động:
Hai giờ ngục mở thay không khí,
Ai nấy nhìn lên: trời tự do!
Tiên khách tự do trên thượng giới,
Biết chăng, tiên cũng ở trong tù?
Chiều hôm
晚
Vãn
Chiều hôm
晚餐吃了日西沉
處處山歌與樂音
幽暗靖西禁閉室
忽成美術小翰林
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.
Bản dịch của Nam Trân:
Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm,
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm;
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.
Cơm tù
囚粮
Tù lương
Cơm tù
每餐一碗紅米飯
無盐無菜又無湯
有人送飯吃得飽
没人送飯喊爺娘
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn
Vô diêm vô thái hựu vô thang
Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão
Một nhân tống phạn hám gia nương
Bản dịch của Nam Trân – Băng Thanh:
Không rau, không muối, canh không có,
Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là;
Có kẻ đem cơm còn chắc dạ,
Không người lo bữa đói kêu cha.
Bạn tù thổi sáo
難友吹笛
Nạn hữu xuy địch
Bạn tù thổi sáo
獄中忽聽思鄉曲
聲轉淒涼調轉愁
千里關河無限感
閨人更上一層樓
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Bản dịch của Nam Trân:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Bản dịch của Huệ Chi:
Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê,
Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê;
Nghìm dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê.
Cái cùm
脚閘
Cước áp
Cái cùm
一
狰獰餓口似兇神
晚晚張開把脚吞
各人被吞了右脚
只剩左脚能屈伸
二
世間更有離奇事
人憫争先上脚鉗
因為有鉗才得睡
無鉗没處可安眠
Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần
Vãn vãn trương khai bả cước thôn
Các nhân bị thôn liễu hữu cước
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
Thế gian cánh hưu ly kỳ sự
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy
Vô kiềm một xứ khả an miên.
Bản dịch của Nam Trân:
Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu?
Học đánh cờ
學奕棋
Học dịch kỳ
Học đánh cờ
一
閑坐無聊學奕棋
千兵萬馬共驅馳
進攻退守應神速
高才疾足先得之
二
眼光應大心應細
堅决時時要進攻
錯路雙車也没用
逢時一卒可成功
三
雙方勢力本平均
勝利终須屬一人
攻守運籌無漏著
才稱英勇大將軍
Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ
Thiên binh vạn mã cộng khu trì;
Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,
Cao tài tật túc tiên đắc chi.
Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế
Kiên quyết thời thời yếu tấn công
Thác lộc song xa dã một dụng
Phùng thời nhất tốt khả thành công?
Song phương thế lực thản bình quân
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu trước,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.
Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng:
Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi,
Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài;
Tấn công, thoái thủ nên thần tốc,
Chân lẹ, tài cao ắt thắng người.
Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công.
Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng danh.
Ngắm trăng
望月
Vọng nguyệt
Ngắm trăng
獄中無酒亦無花
對此良宵奈若何
人向窗前看明月
月從窗隙看詩家
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Bản dịch của Nam Trân:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Chia nước
分水
Phân thủy
Chia nước
每人分得水半盆
洗面烹茶各随便
誰要洗面勿烹茶
誰要烹茶勿洗面
Mỗi nhân phân đắc thủy bán bồn
Tẩy diện phanh trà các tùy tiện
Thùy yếu tẩy diện vật phanh tra
Thùy yếu phanh tra vật tẩy diện.
Bản dịch của Nam Trân - Trần Đắc Thọ:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà.